Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam trong khuôn khổ Công ước Berne
Công ước Berne về bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật, còn được gọi ngắn gọn là Công ước Berne (phát âm tiếng Việt: Công ước Bơn hay Công ước Béc-nơ), được ký tại Bern (Thụy Sĩ) năm 1886, lần đầu tiên thiết lập và bảo vệ quyền tác giả giữa các quốc gia có chủ quyền. Công ước hiện nay có trên 160 quốc gia là thành viên. Ngày 26 tháng 7 năm 2004, nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã chính thức nộp văn kiện gia nhập Công ước Berne. Theo đó kể từ ngày 26 tháng 10 năm 2004, Việt Nam chính thức trở thành thành viên của công ước Berne.
Mục lục
Nguyên tắc bảo hộ quyền tác giả tự động hay bảo hộ đương nhiên của Công ước Berne

Nguyên tắc bảo hộ quyền tác giả tự động hay bảo hộ đương nhiên là một trong những nguyên tắc đặc thù của bảo hộ quyền tác giả theo đó quyền tác giả phát sinh ngay khi tác phẩm được định hình dưới dạng vật chất nhất định không lệ thuộc vào bất kì thủ tục nào như đăng kí cấp giấy chứng nhận, nộp lưu chiểu.
Không có và không thể áp dụng trong lĩnh vực bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp xuất phát từ tính duy nhất hay tính nguyên gốc của tác phẩm văn học và nghệ thuật. Khác với các đối tượng bảo hộ sở hữu công nghiệp, các tác phẩm văn hóa nghệ thuật chỉ có thể được cảm thụ thông qua sự thể hiện tác phẩm mà không thể được đem ra áp dụng trong các tác phẩm văn hóa nghệ thuật sau đó. Hơn nữa, một tác phẩm văn học nghệ thuật thường gắn với cảm xúc của tác giả và không thể lặp lại y hệt ở người khác, nói một cách khác các tác phẩm văn học thường mang dấu ấn của cá nhân tác giả.
Nguyên tắc được cụ thể hóa tại khoản 2 Điều 5 công ước. Theo đó ta có thể hiểu quyền tác giả được định hình dưới dạng vật chất nhất định mà không phụ thuộc vào bất kỳ thủ tục hình thức nào như đăng kí, nộp lưu chiểu… “ Hình thức vật chất” được hiểu là bất kỳ thể hiện nào qua đó công chúng thấy được sự tồn tại của tác phẩm.
Nguyên tắc này đã chủ trương dành sự tôn trọng rất lớn cho các tác giả sáng tạo ra các tác phẩm văn hóa nghệ thuật. Bảo hộ quyền tác giả là bảo hộ sự sáng tạo cá nhân về hình thức thể hiện ý tưởng, do đó khi con người sáng tạo và thể hiện ý tưởng dưới một hình thức khách quan nhất định thì cũng đồng thời phát sinh quyền tác giả mà không cần một điều kiện hay thủ tục nào.
Nguyên tắc này đã dành cho tác giả sáng tạo ra các tác phẩm văn học nghệ thuật sự ưu đãi lớn để các tác giả tập trung sáng tạo sản phẩm mà không phải chú ý đến các thủ tục hành chính.
Sự tương thích giữa các qui định pháp luật hiện hành về quyền tác giả của Việt Nam và các công ước Berne
Là thành viên của Công ước Berne, Việt Nam đã từng bước nghiên cứu và ban hành các quy định về Sở hữu trí tuệ đáp ứng yêu cầu mà Công ước này đặt ra cho các Quốc gia thành viên. Với Luật Sở hữu trí tuệ hiện hành, Việt Nam đã có những quy định về Quyền tác giả tương đối đầy đủ trước yêu cầu phát triển. Việc đánh giá và so sánh các quy định của Công ước Berne và Luật sở hữu trí tuệ hiện hành là việc làm cần thiết để pháp luật về Quyền tác giả tại Việt Nam ngày càng hoàn thiện thêm.
Khi áp dụng Công ước Berne tại Việt Nam thì có một số thuận lợi là sự tương thích của một số quy định trong Công ước Berne với quy định về Quyền tác giả ở Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam. Cụ thể như sau:
– Về thực thi quyền tác giả. Những quy định về thực thi Quyền tác giả của Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam phù hợp với quy định của Công ước Berne. Để đảm bảo thực thi quyền tác giả có thể áp dụng ba loại thủ tục là dân sự, hành chính và hình sự. Các biện pháp cụ thể được áp dụng bao gồm: biện pháp khẩn cấp tạm thời, bồi thường thiệt hại, phạt tiền và hình phạt tù.
– Về tiêu chuẩn bảo hộ: Công ước Berne, Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam cùng quy định bảo hộ các tác phẩm được sáng tạo và được thể hiện dưới một hình thức vật chất nhất định, không phân biệt nội dung, chất lượng, hình thức, phương tiện, ngôn ngữ.
– Về thời điểm phát sinh Quyền tác giả: Cùng theo nguyên tắc bảo hộ đương nhiên Công ước Berne, Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam quy định: Quyền tác giả phát sinh kể từ khi tác phẩm được sáng tạo, không phân biệt đã công bố hay chưa công bố, đã đăng ký hay chưa đăng ký.
– Về đối tượng bảo hộ: Công ước Berne, Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam đều quy định bảo hộ tất cả các tác phẩm trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật và khoa học. Các đối tượng gồm: Tác phẩm văn học, khoa học, sách giáo khoa, giáo trình, bài giảng, bài phát biểu và bài nói, tác phẩm âm nhạc, tác phẩm sân khấu, tác phẩm điện ảnh và tác phẩm được tạo ra theo phương pháp tương tự, tác phẩm tạo hình, mỹ thuật ứng dụng, tác phẩm nhiếp ảnh, tác phẩm kiến trúc, bản họa đồ, sơ đồ, bản đồ, bản vẽ liên quan đến địa hình, kiến trúc, công trình khoa học, tác phẩm văn học.
Bên cạnh một số điều khoản phù hợp thì Công ước Berne và luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam có một số điều khoản quy định về Quyền tác giả chênh lệch nhau. Cụ thể:
– Quy định về thời hạn bảo hộ quyền tác giả: Theo Công ước Berne, thời hạn bảo hộ quyền tác giả tối thiểu là suốt cuộc đời tác giả và 50 năm sau khi tác giả chết (Điều 7). Đối với các tác phẩm khuyết danh, tác phẩm điện ảnh thì thời hạn này là 50 năm, còn đối với tác phẩm nhiếp ảnh thì thời hạn bảo hộ là 25 năm.
Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam quy định tại khoản 2 Điều 27, thời hạn bảo hộ là suốt cuộc đời tác giả và 50 năm tiếp theo năm tác giả chết. Đối với các tác phẩm điện ảnh, nhiếp ảnh, mỹ thuật ứng dụng, tác phẩm khuyết danh có thời hạn bảo hộ là 75 năm, kể từ khi tác phẩm được công bố lần đầu tiên; Đối với tác phẩm điện ảnh, nhiếp ảnh, mỹ thuật ứng dụng chưa được công bố trong thời hạn 25 năm.
– Quy định về quyền của tác giả, chủ sở hữu tác phẩm. Công ước Berne quy định Quyền tác giả bao gồm quyền tinh thần và quyền kinh tế.
Trong khi đó Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam quy định tại Điều 18 : Quyền tác giả đối với tác phẩm quy định tại Luật này bao gồm quyền nhân thân và quyền tài sản. Quyền nhân thân (Điều 19) quy định: Quyền đặt tên cho tác phẩm, quyền đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm; được nêu tên thật hoặc bút danh khi tác phẩm được công bố, sử dụng, quyền công bố tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm, quyền bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm, không cho người khác sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả.
Quyền tài sản (Điều 20) quy định: Quyền làm tác phẩm phái sinh, quyền biểu diễn tác phẩm trước công chúng, quyền sao chép tác phẩm, quyền phân phối, nhập khẩu bản gốc hoặc bản sao tác phẩm, quyền truyền đạt tác phẩm đến công chúng bằng phương tiện hữu tuyến, vô tuyến, mạng thông tin điện tử hoặc bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào khác, quyền cho thuê bản gốc hoặc bản sao tác phẩm điện ảnh, chương trình máy tính.
– Quy định về các đối tượng không được bảo hộ. Công ước Berne không có quy định về vấn đề này trong khi đó Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam có Điều 15 quy định về Các đối tượng không thuộc phạm vi bảo hộ quyền tác giả, bao gồm: Tin tức thời sự thuần tuý đưa tin, văn bản quy phạm pháp luật, văn bản hành chính, văn bản khác thuộc lĩnh vực tư pháp và bản dịch chính thức của văn bản đó, quy trình, hệ thống, phương pháp hoạt động, khái niệm, nguyên lý, số liệu.